XÂY DỰNG LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

XÂY DỰNG LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

XÂY DỰNG LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

1. Bối cảnh xây dựng dự án Luật Đấu giá tài sản
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động đấu giá tài sản đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm. Ở Việt Nam, hoạt động đấu giá tài sản do các hỗ giá viên thực hiện đã hình thành và tồn tại trong thời kỳ Pháp thuộc. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chức danh hỗ giá viên tiếp tục được quy định và việc đấu giá tài sản trong thời kỳ này tạm thời được giữ nguyên theo các quy định của thời kỳ Pháp thuộc[1]. Trong giai đoạn tiếp theo, hoạt động đấu giá tài sản chủ yếu liên quan đến việc phát mại tài sản để thi hành án[2]. Đến năm 1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự, trong đó có một số quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản đã kê biên để thi hành án.
Năm 1996, trên cơ sở quy định về bán đấu giá tài sản của Bộ luật Dân sự, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 về việc ban hành quy chế bán đấu giá tài sản, từ đó hoạt động đấu giá được hình thành và từng bước phát triển thành dịch vụ bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp. Để góp phần thống nhất về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản, đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân về dịch vụ bán đấu giá tài sản, Quốc hội đã ban hành Luật Thương mại, trong đó quy định việc bán đấu giá tài sản của thương nhân. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định về lĩnh vực này, trong đó có Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán đấu giá tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị định số 17/2010/NĐ-CP)[3].
Sau 5 năm thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, hoạt động đấu giá tài sản đã đạt được những kết quả đáng kể. Các loại tài sản bắt buộc đấu giá được mở rộng hơn, chất lượng hoạt động đấu giá ngày càng được nâng cao. Số hợp đồng đấu giá thành, giá trị tài sản bán được cao hơn nhiều so với giá khởi điểm, thu ngân sách nhà nước thông qua hoạt động đấu giá đạt hiệu quả cao[4]. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước bước sang giai đoạn mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và các ngành dịch vụ theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động đấu giá tài sản đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như:
Thứ nhất, chất lượng dịch vụ đấu giá nhìn chung còn chưa hiệu quả, còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá trong các phiên đấu giá; chưa có cơ chế hữu hiệu kiểm soát việc đấu giá, nhất là đấu giá tài sản nhà nước. Đặc biệt, việc bàn giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá đối với tài sản thi hành án, tài sản giao dịch bảo đảm còn gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến tình trạng người mua được tài sản đấu giá ngay tình chịu nhiều rủi ro, quyền lợi hợp pháp bị ảnh hưởng do không nhận được tài sản trúng đấu giá.
Thứ hai, doanh nghiệp đấu giá đã có sự phát triển đáng kể về số lượng, nhưng tổ chức và hoạt động còn chưa chuyên nghiệp. Số doanh nghiệp thực chất hoạt động chuyên nghiệp về đấu giá tài sản là rất ít, phần lớn doanh nghiệp còn lại chỉ đăng ký hoạt động đấu giá tài sản mà không thực hiện phiên đấu giá nào trên thực tế. Số Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tự chủ về kinh phí hoạt động còn chưa nhiều; một số Trung tâm hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách của nhà nước (theo số liệu thống kê đến ngày 31/12/2014, có 12/63 Trung tâm tự chủ 100% về tài chính, 46/63 Trung tâm được Nhà nước bao cấp một phần kinh phí, 5/63 Trung tâm được bao cấp 100% kinh phí). Ngoài ra, vẫn còn tình trạng thành lập Hội đồng để bán đấu giá tài sản không đúng quy định của pháp luật. Chất lượng của đội ngũ đấu giá viên tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản ở một số nơi còn buông lỏng; công tác thanh tra, kiểm tra còn chưa thực hiện thường xuyên; chế tài và việc xử lý các vi phạm trong hoạt động đấu giá còn chưa nghiêm, chưa kịp thời, dẫn đến hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao.
Thứ tư, ở các nước phát triển, đấu giá là hình thức bán tài sản công khai, minh bạch, hiệu quả, rất thông dụng và chủ yếu bán tài sản của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, tại Việt Nam hoạt động đấu giá chủ yếu tập trung vào các tài sản mà theo quy định của pháp luật bắt buộc phải đấu giá, chủ yếu là tài sản nhà nước (tính từ tháng 7/2010 đến hết ngày 31/12/2014, trong cả nước mới chỉ có 37 cuộc đấu giá do cá nhân, tổ chức tự nguyện lựa chọn dịch vụ đấu giá để xử lý tài sản của mình). Ngoài ra, còn tồn tại tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động đấu giá, nhất là giữa doanh nghiệp đấu giá tài sản là tổ chức kinh tế hoạt động theo pháp luật doanh nghiệp với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản là đơn vị sự nghiệp công lập.
Những hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân chính sau đây:
Một là, thể chế pháp luật về đấu giá tài sản hiện hành chưa đồng bộ, chưa thống nhất; dịch vụ đấu giá là một hoạt động quan trọng trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, nhưng đến nay vẫn chưa có luật riêng điều chỉnh; còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý giữa các văn bản quy phạm pháp luật về trình tự, thủ tục đấu giá[5], chưa tạo điều kiện cho việc xử lý tài sản một cách nhanh chóng, thuận tiện, nhất là đối với việc đấu giá tài sản tự nguyện của tổ chức, cá nhân.
Hai là, quy định hiện hành về điều kiện để trở thành đấu giá viên còn đơn giản, dễ dãi; thời gian đào tạo nghề đấu giá còn ít so với các chức danh bổ trợ tư pháp khác, nhất là chưa có quy định về tập sự hành nghề đối với đấu giá viên, do đó, chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đấu giá viên còn hạn chế.
Ba là, năng lực quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về đấu giá tài sản ở một số địa phương còn bất cập, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý và hỗ trợ phát triển đối với doanh nghiệp đấu giá còn chưa rõ ràng, thiếu hiệu quả. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý về lĩnh vực đấu giá tài sản còn mỏng, chưa được đào tạo bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực mới mẻ này.
Bốn là, do điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta đang phát triển, nhận thức của cơ quan nhà nước, tổ chức, người dân, đặc biệt là các chủ thể có liên quan về hoạt động đấu giá chưa đầy đủ, chưa toàn diện nên đã có tác động không nhỏ đến việc phát triển hoạt động đấu giá theo cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, do truyền thống tâm lý của tổ chức, cá nhân còn e ngại việc công khai tài sản khi đấu giá, ngại tiếp cận các thủ tục đấu giá và thanh toán các chi phí đấu giá đã làm cho phương thức đấu giá trở nên thiếu sức hấp dẫn đối với đấu giá tài sản tự nguyện. Ngoài ra, đấu giá tài sản là loại hình dịch vụ mới hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, do vậy, chưa theo kịp với các nước đã có lịch sử nghề đấu giá lâu đời ở khu vực và trên thế giới.
Từ thực tế nêu trên cho thấy sự cần thiết phải xây dựng Luật Đấu giá tài sản để đáp ứng nhu cầu hoàn thiện pháp luật trong tình hình mới.
2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện chất lượng hoạt động đấu giá
Để nâng cao chất lượng hoạt động đấu giá, dự thảo Luật Đấu giá tài sản cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần chuẩn hóa việc đào tạo nghề đấu giá, quy trình tập sự hành nghề đấu giá, từ đó, nâng cao chất lượng đội ngũ đấu giá viên, chất lượng hoạt động đấu giá tài sản, tính chuyên môn, chuyên nghiệp của hoạt động đấu giá tài sản.
Thứ hai, cần thống nhất về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản áp dụng đối với các loại tài sản bán đấu giá, bao gồm cả tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá và tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức có lựa chọn hình thức bán đấu giá.
Thứ ba, cần đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan của việc niêm yết, thông báo bán đấu giá, việc đăng ký tham gia đấu giá, tính chặt chẽ, phù hợp đối với các hình thức đấu giá nhằm hạn chế tình trạng thông đồng, móc nối để dìm giá, làm sai lệch kết quả đấu giá.
Thứ tư, cần nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người có tài sản trong việc tổ chức bán đấu giá, đồng thời, có cơ chế kiểm soát hữu hiệu trong quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản nhất là đối với tài sản nhà nước.
Thứ năm, cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động đấu giá tài sản của đấu giá viên, tổ chức bán đấu giá tài sản.
3. Một số định hướng xây dựng Luật Đấu giá tài sản
Một là, về phạm vi điều chỉnh
– Dự thảo Luật Đấu giá tài sản áp dụng đối với việc đấu giá các tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá và tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân lựa chọn hình thức bán thông qua đấu giá, ngoại trừ việc đấu giá chứng khoán và tài sản nhà nước ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật điều chỉnh đối với loại tài sản đó.
– Dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định việc đấu giá tài sản nhà nước ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước ở nước ngoài và Luật Đấu giá tài sản, bởi lẽ, theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thì việc quản lý, sử dụng tài sản nhà nước của cơ quan nhà nước của Việt Nam tại nước ngoài được thực hiện theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, phù hợp với quy chế ngoại giao và pháp luật của nước sở tại. Như vậy, việc xử lý tài sản nêu trên ngoài pháp luật Việt Nam còn phải tuân theo pháp luật nước sở tại, phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam và nước đó về mở cửa thị trường dịch vụ đấu giá tài sản[6]. Nếu quy định việc bán đấu giá tài sản nhà nước ở nước ngoài theo Luật Đấu giá tài sản thì có thể phát sinh mâu thuẫn trong trường hợp pháp luật nước sở tại có quy định khác (ví dụ như trường hợp pháp luật nước sở tại không cho phép tổ chức đấu giá Việt Nam hành nghề tại nước đó).
– Dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định việc đấu giá chứng khoán được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán xuất phát từ lý do là việc đấu giá chứng khoán được thực hiện theo trình tự, thủ tục với số lượng người tham gia có thể lên đến hàng nghìn người, hàng triệu chứng khoán có thể được giao dịch cùng lúc, việc đấu giá phải có tổ chức bảo lãnh phát hành, đồng thời, việc niêm yết chứng khoán được tiến hành theo cách thức khác biệt hoàn toàn so với niêm yết tài sản thông thường như phải có bản cáo bạch, công bố thông tin… Bên cạnh đó, việc đấu giá chứng khoán hoàn toàn được thực hiện trên sàn giao dịch điện tử hiện đại, thực hiện phiên khớp lệnh liên tục, đòi hỏi yêu cầu chuyên môn kỹ thuật cao mà điều kiện về cơ sở vật chất và trang thiết bị của các doanh nghiệp đấu giá hiện nay không thể đáp ứng được; việc bán đấu giá chứng khoán không phải do đấu giá viên điều hành. Trên thế giới, việc đấu giá chứng khoán đều được thực hiện trên các sàn giao dịch chứng khoán như sàn giao dịch Nasdaq, Tokyo, New York, Thượng Hải…
Hai là, về mối quan hệ giữa Luật Đấu giá tài sản và các luật khác
Hiện nay có rất nhiều loại tài sản bắt buộc phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật như: Tài sản để thi hành án, tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung công quỹ nhà nước, tài sản giao dịch bảo đảm, tài sản nhà nước, hàng dự trữ quốc gia, tài sản thanh lý của doanh nghiệp phá sản… Trong số những tài sản nêu trên, một số loại tài sản được bán đấu giá theo trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP; một số tài sản khác được thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành, tuy nhiên, trình tự, thủ tục bán đấu giá không khác biệt so với trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Điểm khác biệt lớn nhất trong việc bán đấu giá các loại tài sản này là việc xác định giá khởi điểm và việc chuyển giao tài sản sau khi bán đấu giá.
Nhằm thống nhất trình tự, thủ tục bán đấu giá đối với các loại tài sản phải bán đấu giá, tránh tình trạng quy định tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn hoặc chồng chéo trong các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản, qua đó, góp phần làm minh bạch hóa hoạt động bán đấu giá, chống thất thoát tài sản nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định thống nhất trình tự, thủ tục bán đấu giá đối với các loại tài sản bán đấu giá thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu giá tài sản như đã nêu trên; trong trường hợp có sự khác nhau về trình tự, thủ tục đấu giá giữa quy định của Luật Đấu giá tài sản và các luật khác thì áp dụng quy định của Luật Đấu giá tài sản.
Ba là, về tách bạch những vấn đề liên quan đến trước và sau khi tổ chức cuộc đấu giá
Pháp luật hiện hành về bán đấu giá quy định hợp đồng mua bán tài sản được ký kết giữa người mua được tài sản với tổ chức bán đấu giá. Quy định này đã dẫn đến tình trạng bên đứng tên ký hợp đồng mua bán không phải là người có tài sản dẫn tới người có tài sản không thể hiện ý chí của mình trong hợp đồng nên ảnh hưởng tới việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản. Để khắc phục bất cập này, dự thảo Luật Đấu giá tài sản tách quy trình về bán đấu giá với quy trình thẩm định giá, xác định giá khởi điểm và quy trình ký hợp đồng, chuyển quyền sở hữu tài sản theo hướng việc thẩm định giá, xác định giá khởi điểm được thực hiện trước khi ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá và được thực hiện theo quy định của pháp luật điều chỉnh đối với loại tài sản đó; tổ chức bán đấu giá tài sản chỉ cung cấp dịch vụ bán đấu giá, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá được ký trực tiếp giữa bên bán tài sản và người mua tài sản bán đấu giá.
Bốn là, về chuyển đổi mô hình hoạt động Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản
Nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động đấu giá tài sản, góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động nghề nghiệp đấu giá tài sản, dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định căn cứ tình hình thực tiễn tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, quyết định việc giao cơ chế tự chủ cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Trong trường hợp không cần thiết duy trì Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thì Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, quyết định việc chuyển đổi Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp hoặc giải thể Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Quy định này xuất phát từ tình hình thực tiễn là trong thời gian qua, mặc dù các doanh nghiệp đấu giá tài sản đã có sự đóng góp tích cực trong hoạt động đấu giá tài sản, nhưng tại một số địa phương, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản vẫn giữ vai trò nòng cốt trong việc đấu giá, nhất là tại 12 tỉnh hiện nay chưa có doanh nghiệp đấu giá tài sản.
Năm là, về một số định hướng cụ thể
– Về tài sản đấu giá 
Dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định tài sản bán đấu giá bao gồm tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá và tài sản do tổ chức, cá nhân tự nguyện lựa chọn bán thông qua đấu giá. Đối với tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, dự thảo Luật Đấu giá tài sản liệt kê cụ thể các loại tài sản này (ví dụ như: Tài sản là quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai, tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, tài sản của doanh nghiệp phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản…), đồng thời, có quy định mở trong trường hợp pháp luật chuyên ngành sau này có quy định tài sản phải bán thông qua đấu giá thì cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu giá tài sản.
– Về tiêu chuẩn đấu giá viên, đào tạo nghề, tập sự hành nghề đấu giá 
Nghề đấu giá đòi hỏi cần có kiến thức, kỹ năng tổng hợp về pháp luật, tài chính, xã hội và thường xuyên phải cọ xát với thực tiễn, đặc biệt là kỹ năng điều hành phiên đấu giá. Pháp luật của đa số các nước quy định người hành nghề đấu giá phải qua đào tạo nghề, tập sự hành nghề, có nơi còn phải qua kỳ thi tuyển của Hiệp hội đấu giá viên (như ở Mỹ, Pháp, Trung Quốc…). Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ đấu giá viên và tính chuyên nghiệp trong hoạt động hành nghề đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định theo hướng nâng cao tiêu chuẩn trở thành đấu giá viên, cụ thể để trở thành đấu giá viên thì người đó phải tham gia khóa đào tạo nghề đấu giá với thời gian là 06 tháng; thực hiện tập sự hành nghề đấu giá trong thời gian 06 tháng và đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề đấu giá. Thông lệ quốc tế về nghề đấu giá tài sản, dự thảo Luật Đấu giá tài sản cũng quy định rõ những đối tượng được miễn đào tạo nghề đấu giá bao gồm những người đã qua các khóa đào tạo về nghề nghiệp và có kỹ năng hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp và lĩnh vực có liên quan như luật sư, quản tài viên, thừa phát lại, kiểm toán viên, công chứng viên…
– Về doanh nghiệp đấu giá tài sản 
Dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định doanh nghiệp đấu giá tài sản được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Quy định này trước hết xuất phát từ tính chất của hoạt động đấu giá tài sản liên quan đến tiền, tài sản của bên thứ ba và theo quy định của Luật Đầu tư, đấu giá tài sản là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Do đó, doanh nghiệp đấu giá tư nhân hoặc công ty hợp danh là các tổ chức kinh tế chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của mình sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đấu giá trong hành nghề, qua đó góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người có tài sản, người tham gia đấu giá, đảm bảo tính chuyên nghiệp về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp đấu giá tài sản. Mặt khác, hình thức doanh nghiệp đấu giá tài sản là doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh cũng tương thích với hình thức tổ chức hành nghề trong một số lĩnh vực hành nghề bổ trợ tư pháp khác có tính chất tương tự như quản tài viên, công chứng viên đã được Luật Phá sản, Luật Công chứng quy định.
– Về trình tự, thủ tục đấu giá 
Dự thảo Luật Đấu giá quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản chung và trình tự, thủ tục đấu giá các loại tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá theo hướng chặt chẽ, đảm bảo tính minh bạch, khách quan, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan, hạn chế tối đa tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá, tránh gây thất thoát cho tài sản nhà nước, thể hiện qua một số nội dung chính như sau:
– Việc niêm yết các thông tin đấu giá tài sản được công khai rộng rãi, minh bạch tới các đối tượng có nhu cầu mua tài sản đấu giá; việc tổ chức đăng ký tham gia đấu giá đảm bảo tính chặt chẽ, khách quan, thuận lợi và tổ chức đấu giá tài sản không được đặt thêm yêu cầu, điều kiện nào đối với người đăng ký tham gia đấu giá ngoài các điều kiện đã được pháp luật quy định; nâng tỷ lệ tiền đặt trước lên mức phù hợp để hạn chế tình trạng người không có nhu cầu mua tài sản, nhưng vẫn đăng ký tham gia đấu giá để trục lợi hoặc gây khó khăn cho cuộc đấu giá; thủ tục mua hồ sơ, đăng ký tham gia đấu giá được thực hiện công khai, thuận lợi nhằm tránh tình trạng tổ chức đấu giá cản trở hoặc hạn chế người đăng ký tham gia đấu giá; khoản tiền đặt trước, tiền mua tài sản đấu giá được quản lý chặt chẽ hơn.
– Quy định rõ ràng, rành mạch hơn hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp, bỏ phiếu gián tiếp; bổ sung hình thức đấu giá trực tuyến, qua đó góp phần hạn chế tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, móc nối để dìm giá, làm sai lệch kết quả đấu giá; bổ sung phương thức đặt giá xuống theo thông lệ của các nước trong khu vực và trên thế giới như đấu giá hàng hóa ở Thái Lan, đấu giá hoa tulip ở Hà Lan, đấu giá cá tại Anh và Israel, thị trường tín dụng ở Rumani, trao đổi ngoại thương ở Bolivia… để đáp ứng yêu cầu thực tiễn tại Việt Nam cũng như xu thế hội nhập quốc tế.
– Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người có tài sản đấu giá, người trúng đấu giá, theo đó, trong quá trình tổ chức đấu giá, người có tài sản đấu giá có quyền dừng việc tổ chức đấu giá nếu có hành vi vi phạm trình tự, thủ tục đấu giá, dừng cuộc đấu giá nếu có hành vi thông đồng, móc nối để dìm giá; tại cuộc đấu giá, đấu giá viên có quyền truất quyền tham dự cuộc đấu giá đối với người vi phạm quy chế cuộc đấu giá.
– Quy định thống nhất tên gọi là thù lao dịch vụ đấu giá và thù lao dịch vụ đấu giá được tính theo cơ chế giá dịch vụ thị trường do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người có tài sản khi bán tài sản thuộc sở hữu của nhà nước, tài sản thuộc sở hữu của bên thứ ba (như tài sản thi hành án, giao dịch bảo đảm), dự thảo Luật Đấu giá tài sản quy định thù lao dịch vụ đấu giá được xác định theo khung do Bộ Tài chính quy định.
– Quy định các trường hợp hủy kết quả đấu giá đảm bảo chặt chẽ, khách quan, bảo vệ quyền, lợi ích của các bên có liên quan, phù hợp với thực tiễn hoạt động đấu giá tài sản và quy định của pháp luật về dân sự. Cụ thể, dự thảo Luật Đấu giá tài sản bỏ trường hợp kết quả đấu giá bị hủy theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã được quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP.
Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực thi hành được hơn 2 năm, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động đấu giá tài sản đã và đang được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện như: Luật Đất đai, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp… Việc ban hành Luật Đấu giá tài sản sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ đối với lĩnh vực này theo hướng chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới là rất cần thiết nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống nhất cho hoạt động đấu giá tài sản, khắc phục những bất cập, hạn chế hiện nay.
Đỗ Hoàng Yến
Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp

Trả lời