BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ GÌ?

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ GÌ?

Đấu giá tài sản là một hình thức bán tài sản thông qua các thủ tục trả giá công khai giữa nhiều người muốn mua, cũng như người trả giá cao nhất là người được quyền mua tài sản bán. Đấu giá tài sản có thể là bắt buộc (theo quyết định của Toà án hoặc là cơ quan nhà nước có thẩm quyền) hoặc có thể tự nguyện (theo đúng nhu cầu của chủ sở hữu tài sản). Người bán tài sản có thể tự tổ chức đấu giá hoặc là thông qua người bán đấu giá.

Ở Việt Nam, người bán đấu giá là những trung tâm dịch vụ bán đấu giá do Sở Tư pháp trực tiếp quản lí hoặc là thương nhân hoạt động bán đấu giá chuyên nghiệp được tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Đấu giá có thể thực hiện dưới phương thức đấu tăng giá hoặc là đấu hạ giá (đấu giá kiểu Hà Lan/Dutch auction). Pháp luật Việt Nam chỉ có quy định về đấu tăng giá.

Thông thường, để đấu giá tài sản, người bán đấu giá cần đưa ra giá khởi điểm của tài sản muốn bán, cũng như phải trưng bày tài sản để những người muốn mua xem trước. Những người muốn mua sẽ tham gia trả giá theo đúng thủ tục nhất định. Người trả giá cao nhất là người sẽ dành được quyền mua tài sản.

VẬY BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN LÀ GÌ?

Bán đấu giá tài sản là một hình thức bán tài sản công khai để cho nhiều người có thể cùng tham gia trả giá mua một tài sản. Những người tham gia mua tài sản bán đấu giá cần nộp một khoản lệ phí theo đúng quy định của pháp luật. Khoản tiền này nhằm ràng buộc người đã đăng kí phải tham gia bán đấu giá tài sản hoặc có thể không mua tài sản thì số tiền này không được lấy lại. Nếu họ có tham gia đấu giá nhưng không mua được thì nhận lại số tiền lệ phí mà mình đã đóng.

Khi tham gia đấu giá tài sản, người nào trả mức giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm thì người đó sẽ được mua tài sản. Nếu trong cuộc bán đấu giá mà không ai trả giá cao hơn mức giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá xem như không thành, đồng thời sẽ được tổ chức lại.

Dựa vào hình thức này, quyền lợi của người có tài sản được thỏa mãn một cách tốt nhất, còn người mua sẽ mua tài sản với giá cả phù hợp, quyền lợi của người mua liên quan đến tài sản đã mua được đáp ứng nhanh chóng.

NGƯỜI BÁN ĐẤU GIÁ

Người bán đấu giá là trung tâm dịch vụ về bán đấu giá tài sản do Sở tư pháp trực tiếp quản lí hoặc những tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá có tư cách pháp nhân. Tổ chức đấu giá tài sản bao gồm Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản, cũng như doanh nghiệp đấu giá tài sản.

Nghĩa vụ của người bán đấu giá

Người bán đấu giá có nghĩa vụ thông báo và niêm yết công khai đầy đủ, chính xác thông tin cần thiết liên quan đến tài sản đấu giá.

Các thông tin về bán đấu giá như thời gian, chất lượng, loại tài sản, giá khởi điểm,.. phải được niêm yết ở trụ sở của tổ chức bán đấu giá. Nếu tài sản là bất động sản hoặc là động sản có giá khởi điểm từ 10 triệu đồng trở lên thì phải thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng hai lần và mỗi lần cách nhau ba ngày. Như vậy, số lượng người biết về bán đấu giá tài sản sẽ nhiều hơn, việc bán đấu giá sẽ khách quan hơn.

Người bán đấu giá cần phải bảo quản tài sản được giao, không được sử dụng tài sản, nếu làm hư hỏng và mất mát thì phải bồi thường thiệt hại.

Trước khi bán đấu giá phải trưng bày, đồng thời cho xem hồ sơ tài sản bán đấu giá. Đặc biệt đối với tài sản như nhà ở, quyền sử dụng đất phải có đủ giấy tờ hợp pháp về sở hữu nhà ở, cũng như quyền sử dụng đất. Người bán đấu giá tài sản cần bảo đảm quyền sở hữu cho người mua về nhà ở và đảm bảo quyền sử dụng đất cho người mua theo đúng quy định về chuyển quyền sử dụng đất trong Bộ Luật Dân sự và Luật đất đai 2013.

Sau khi bán đấu giá và người bán đấu giá phải giao ngay cho người mua tài sản bán đấu giá nếu là động sản. Đối với các tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, người bán đấu giá giao cho người mua khi người mua thanh toán xong tiền mua. Người bán đấu giá thực hiện nghĩa vụ làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua. Trong thời hạn 15 ngày đối với động sản và 30 ngày đối với bất động sản, việc chuyển quyền sở hữu tài sản bán đấu giá cần phải hoàn thành. Các chi phí làm thủ tục chuyển quyền sở hữu trừ vào tiền bán đấu giá tài sản kể cả lệ phí công chứng và văn bản bán đấu giá, lệ phí trước bạ sang tên.

Thông thường, đối với việc đăng kí quyền sở hữu thì người chủ sở hữu mới phải nộp tiền lệ phí trước bạ nhưng trường hợp này lệ phí đã được tính vào giá trị tài sản bán. Vì vậy, khi định giá khởi điểm bán đấu giá cần phải tính thêm vào giá trị tài sản để tránh thiệt hại cho người có tài sản.

Quyền của người bán đấu giá

Người bán đấu giá tài sản có quyền được yêu cầu người bán tài sản cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin liên quan đến tài sản bán đấu giá, chịu trách nhiệm về các thông tin đó.

Trường hợp người có tài sản không còn muốn bán tài sản nhưng bị cưỡng chế bán tài sản để thi hành án thì xác định thông tin về tình hình tài sản sẽ gặp nhiều khó khăn. Nếu tài sản bán đấu giá do chiếm hữu bất hợp pháp mà có  được và sau khi bán đấu giá, người mua bị người khác khởi kiện, cũng như đòi lại tài sản thì người bán đấu giá tài sản phải bồi thường thiệt hại cho người mua tài sản.Đặc biệt các tài sản cầm đồ là động sản rất khó xác định nguồn gốc. Vì rủi ro của người bán đấu giá là rất lớn nên người bán đấu giá cần phải điều tra nguồn gốc tài sản bán đấu giá.

Người bán đấu giá có quyền yêu cầu người mua thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết. Thời điểm ký kết hợp về đồng bán đấu giá chính là thời điểm khi người điều hành bán đấu giá tuyên bố giá cao nhất lần thứ ba mà không phải ai tham gia trả giá nữa. Người mua phải thực hiện nghĩa vụ và nếu họ không thực hiện nghĩa vụ thì người bán đấu giá có quyền xử lý tiền lệ phí bán đấu giá tài sản mà người mua đã đóng trước đó.

Mua bán đấu giá tài sản

NGƯỜI CÓ TÀI SẢN BÁN ĐẤU GIÁ

Người có tài sản bán đấu giá là ai?

Người có tài sản đấu giá là cá nhân và tổ chức sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền bán đấu giá tài sản hoặc có thể người có quyền đưa tài sản ra đấu giá theo thỏa thuận hoặc theo đúng quy định của pháp luật.

Người có tài sản bán đấu giá sẽ ký hợp đồng bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá. Các bên bàn bạc định giá khởi điểm bán đấu giá và giá khởi điểm do người bán tài sản quyết định. Tuy nhiên cần tham khảo ý kiến của người bán đấu giá nhằm định giá tài sản phù hợp với giá thị trường.

Trường hợp bán đấu giá nhằm thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án ra quyết định cưỡng chế thi hành án sẽ là những người có tài sản bán đấu giá, ký hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá. Trong trường hơp này, người cần phải thi hành án dân sự không tự nguyện thực hiện quyết định, bản án của tòa án cho nên theo yêu cầu của người được thi hành án, và cơ quan thi hành án cưỡng chế bán đấu giá tài sản để thi hành án, ký hợp đồng bán đấu giá tài sản để thực hiện nhiệm vụ của mình.

Nghĩa vụ của người có tài sản bán đấu giá

Người có tài sản bán đấu giá thực hiện nghĩa vụ chuyển tài sản cho bên bán đấu giá nếu là động sản. Nếu là bất động sản, cần phải chuyển toàn bộ giấy tờ chứng minh quyền sở hữu về tài sản. Nếu bán đấu giá tài sản để thi hành án thì người bán tài sản cần chuyển giao văn bản hợp đồng, văn bản thế chấp và cầm cố hoặc có thể quyết định của cơ quan thi hành án. Ngoài ra, người có tài sản bán đấu giá có nghĩa vụ cung cấp những thông tin cần thiết về tài sản bán đấu giá. Người có tài sản bán đấu giá cần nộp tiền lệ phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật

NGƯỜI MUA TÀI SẢN BÁN ĐẤU GIÁ

Người mua có thể là cá nhân hoặc có thể pháp nhân. Người nào trả giá cao nhất (nhưng không  thấp hơn giá khởi điểm) sẽ được mua tài sản đấu giá. Nếu người trả giá cao nhất muốn rút lại giá đã trả trước khi người điều hành bán đấu giá tuyên bố được mua tài sản thì cuộc bán đấu giá tài sản vẫn tiếp tục và bắt đầu từ giá liền kề. Người rút lại giá không được hoàn trả khoản tiền đặt trước đó. Số tiền này sẽ thuộc về người có tài sản.

Trường hợp người trả giá cao nhất được mua tài sản đấu giá sau đó từ chối mua thì tài sản được bán cho người trả giá liền kề và nếu người được ưu tiên không mua tài sản thì cuộc bán đấu giá không thành công. Người trả giá cao nhất không mua sẽ mất tiền đặt cọc trước. Đây được coi là số tiền bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng không cần phải là đặt cọc.

Người mua tài sản có quyền sở hữu tài sản từ khi nhận tài sản là động sản. Nếu tài sản là bất động sản thì quyền sở hữu phát sinh kể từ khi đăng ký trước bạ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Trả lời